Áp dụng các tiêu chí của Danh sách Đỏ IUCN, có 46 loài chim bị đe dọa trên toàn cầu được tìm thấy ở Myanmar. Tám loài trong số này là Cực kỳ nguy cấp, mười hai loài Nguy cấp và 26 loài Sẽ nguy cấp.
Ngoài ra, quốc gia này còn lưu giữ sáu loài đặc hữu. Chúng bao gồm Jerdon Minivet Pericrocotus albifrons , Treepie Crypsirina cucullata trùm đầu , Miến Điện Bushlark Mirafra microptera , Miến Điện Tit Aegithalos sharpie , Khướu họng trắng Turdoides gularis và Nuthatch Sitta victoriae nâu trắng .
Các bụng trắng Heron Ardea insignis được liệt vào danh sách Cực kỳ nguy cấp và gần đặc hữu của Myanmar. Và loài này được bảo vệ hoàn toàn theo Luật Bảo vệ Động vật Hoang dã và Bảo tồn Khu vực Tự nhiên ở Myanmar. Trước đây loài này xuất hiện ở Bang Rakhine (Tây Nam Myanmar), Bang Chin phía Bắc (Tây Myanmar), Vùng Mandalay (Trung Myanmar), Vùng Bago (Nam Myanmar) và Bang Kachin (Bắc Myanmar). Có rất ít ghi chép lịch sử về Diệc bụng trắng ở Myanmar.
Từ năm 2009 đến năm 2011, nhóm khảo sát chim của WCS đã tiến hành khảo sát Diệc bụng trắng ở bang Kachin và vùng Sagaing ở Bắc Myanmar, nơi nhóm đặc biệt khảo sát môi trường sống thích hợp cho loài này. Trong các cuộc khảo sát, loài này đã được ghi nhận tại Khu bảo tồn Động vật Hoang dã Thung lũng Hukaung, Khu bảo tồn Động vật Hoang dã Hponkanrazi, Khu vực Naungmung và trên sông Mali Hka tại Machanbaw. Trong số các địa điểm được ghi nhận này, Naungmung và sông Mali Hka là những địa điểm mới cho loài này, còn Hukaung và Phonkanrazi là những địa điểm đã được biết đến trong lịch sử. Loài này cũng được ghi nhận trên sông Shweli ở Đông Myanmar vào năm 2012. Đây cũng là một địa điểm mới của loài này. Kết quả của các cuộc điều tra chỉ ra rằng sự xáo trộn của con người và mất môi trường sống là những mối đe dọa đáng kể đối với loài này ở Myanmar. WCS sẽ tiếp tục khảo sát để làm rõ sự phân bố và tình trạng của nó tại tất cả các di tích lịch sử cũ được ghi nhận và tất cả các môi trường sống có vẻ phù hợp với loài này ở Myanmar. WCS cũng là một thành viên tích cực trong Nhóm công tác về Diệc bụng trắng IUCN SSC. Để biết thêm thông tin: và Hukaung và Phonkanrazi là những địa điểm được biết đến trong lịch sử.
Loài này cũng được ghi nhận trên sông Shweli ở Đông Myanmar vào năm 2012. Đây cũng là một địa điểm mới của loài này. Kết quả của các cuộc điều tra chỉ ra rằng sự xáo trộn của con người và mất môi trường sống là những mối đe dọa đáng kể đối với loài này ở Myanmar. WCS sẽ tiếp tục khảo sát để làm rõ sự phân bố và tình trạng của nó tại tất cả các di tích lịch sử cũ được ghi nhận và tất cả các môi trường sống có vẻ phù hợp với loài này ở Myanmar. WCS cũng là một thành viên tích cực trong Nhóm công tác về Diệc bụng trắng IUCN SSC. Để biết thêm thông tin: và Hukaung và Phonkanrazi là những địa điểm được biết đến trong lịch sử. Loài này cũng được ghi nhận trên sông Shweli ở Đông Myanmar vào năm 2012. Đây cũng là một địa điểm mới của loài này. Kết quả của các cuộc điều tra chỉ ra rằng sự xáo trộn của con người và mất môi trường sống là những mối đe dọa đáng kể đối với loài này ở Myanmar.
WCS sẽ tiếp tục khảo sát để làm rõ sự phân bố và tình trạng của nó tại tất cả các di tích lịch sử cũ được ghi nhận và tất cả các môi trường sống có vẻ phù hợp với loài này ở Myanmar. WCS cũng là một thành viên tích cực trong Nhóm công tác về Diệc bụng trắng IUCN SSC. Để biết thêm thông tin: Kết quả của các cuộc điều tra chỉ ra rằng sự xáo trộn của con người và mất môi trường sống là những mối đe dọa đáng kể đối với loài này ở Myanmar. WCS sẽ tiếp tục khảo sát để làm rõ sự phân bố và tình trạng của nó tại tất cả các di tích lịch sử cũ được ghi nhận và tất cả các môi trường sống có vẻ phù hợp với loài này ở Myanmar. WCS cũng là một thành viên tích cực trong Nhóm công tác về Diệc bụng trắng IUCN SSC. Để biết thêm thông tin: Kết quả của các cuộc điều tra chỉ ra rằng sự xáo trộn của con người và mất môi trường sống là những mối đe dọa đáng kể đối với loài này ở Myanmar. WCS sẽ tiếp tục khảo sát để làm rõ sự phân bố và tình trạng của nó tại tất cả các di tích lịch sử cũ được ghi lại và tất cả các môi trường sống phù hợp với loài này ở Myanmar. WCS cũng là một thành viên tích cực trong Nhóm công tác về Diệc bụng trắng IUCN SSC.
White-rumped Vulture Gyps bengalensis được liệt kê là loài Cực kỳ Nguy cấp và được bảo vệ hoàn toàn theo Luật Bảo vệ Động vật Hoang dã và Bảo tồn Khu vực Tự nhiên ở Myanmar. Loài này từng có nhiều ở Myanmar, Đông Nam Á và tiểu lục địa Ấn Độ. Kền kền đã suy giảm từ nhiều nơi trong phạm vi cũ của chúng do tình trạng thiếu thức ăn, mất môi trường sống và nhiễm độc từ Diclofenec và các hóa chất khác.
Trong bối cảnh Myanmar, việc sử dụng Diclofenec chưa phải là một mối đe dọa nhưng phá hủy tổ, săn bắn, đầu độc gia súc và dịch bệnh tiềm ẩn là những mối đe dọa phổ biến đối với quần thể kền kền. Vào ngày 9 tháng 3 năm 2011, một nhóm các nhà sinh vật học từ Bộ phận Bảo tồn Thiên nhiên và Động vật hoang dã của Cục Lâm nghiệp Myanmar và WCS đã phát hiện ra một đàn Kền kền trắng sinh sản ở Khu bảo tồn Động vật Hoang dã Thung lũng Hukaung, Bắc Myanmar. Địa điểm làm tổ nằm gần làng Dunban dọc theo Đường Ledo ở rìa phía nam của khu bảo tồn. Kỷ lục cuối cùng về việc nhân giống Kền kền trắng ở Myanmar là vào năm 1932 (Stanford và Ticehurst 1935). Tổng cộng có 10 tổ được tìm thấy trong 10 cây riêng biệt. Tất cả các con chim đều bay đi và rời tổ với bố mẹ của chúng vào tháng Sáu. Đây là thành công nhân giống đầu tiên được xác nhận ở Myanmar kể từ năm 1933.
Năm 2012 và 2013, nhóm WCS bao gồm các kiểm lâm viên cộng đồng từ Donban và các cộng đồng lân cận đã theo dõi kền kền và tổ của chúng. Tất cả các tổ đều được sinh sản thành công mỗi năm. Các cuộc khảo sát trong tương lai sẽ được thực hiện để tìm kiếm các khu vực làm tổ bổ sung cho loài này và các con Kền kền đầu mảnh mai Cực kỳ nguy cấp Kỷ lục cuối cùng về việc nhân giống Kền kền trắng ở Myanmar là vào năm 1932 (Stanford và Ticehurst 1935). Tổng cộng có 10 tổ được tìm thấy trong 10 cây riêng biệt. Tất cả các con chim đều bay đi và rời tổ với bố mẹ của chúng vào tháng Sáu. Đây là thành công nhân giống đầu tiên được xác nhận ở Myanmar kể từ năm 1933.
Trong năm 2012 và 2013, nhóm WCS bao gồm các kiểm lâm cộng đồng từ Donban và các cộng đồng lân cận đã giám sát kền kền và tổ của chúng. Tất cả các tổ đều được sinh sản thành công mỗi năm. Các cuộc khảo sát trong tương lai sẽ được thực hiện để tìm kiếm các khu vực làm tổ bổ sung cho loài này và các con Kền kền đầu mảnh mai cực kỳ nguy cấp Kỷ lục cuối cùng về việc nhân giống Kền kền trắng ở Myanmar là vào năm 1932 (Stanford và Ticehurst 1935). Tổng cộng có 10 tổ được tìm thấy trong 10 cây riêng biệt. Tất cả các con chim đều bay đi và rời tổ với bố mẹ của chúng vào tháng Sáu. Đây là thành công nhân giống đầu tiên được xác nhận ở Myanmar kể từ năm 1933.
Năm 2012 và 2013, nhóm WCS bao gồm các kiểm lâm viên cộng đồng từ Donban và các cộng đồng lân cận đã theo dõi kền kền và tổ của chúng. Tất cả các tổ đều được sinh sản thành công mỗi năm. Các cuộc khảo sát trong tương lai sẽ được thực hiện để tìm kiếm các khu vực làm tổ bổ sung cho loài này và các con Kền kền đầu mảnh mai Cực kỳ nguy cấp Đây là thành công nhân giống đầu tiên được xác nhận ở Myanmar kể từ năm 1933. Năm 2012 và 2013, nhóm WCS bao gồm các kiểm lâm viên cộng đồng từ Donban và các cộng đồng lân cận đã theo dõi kền kền và tổ của chúng.
Tất cả các tổ đều được sinh sản thành công mỗi năm. Các cuộc khảo sát trong tương lai sẽ được thực hiện để tìm kiếm các khu vực làm tổ bổ sung cho loài này và các con Kền kền đầu mảnh mai cực kỳ nguy cấp Đây là thành công nhân giống đầu tiên được xác nhận ở Myanmar kể từ năm 1933. Năm 2012 và 2013, nhóm WCS bao gồm các kiểm lâm viên cộng đồng từ Donban và các cộng đồng lân cận đã theo dõi kền kền và tổ của chúng. Tất cả các tổ đều được sinh sản thành công mỗi năm. Các cuộc khảo sát trong tương lai sẽ được thực hiện để tìm kiếm các khu vực làm tổ bổ sung cho loài này và các con Kền kền đầu mảnh mai Cực kỳ nguy cấp tenuirostris , một vài trong số đó vẫn còn xảy ra trong khu vực.
Các Đen bụng Tern Sterna acuticauda được liệt kê là loài Nguy cấp và loài này được bảo vệ hoàn toàn theo Luật Bảo vệ Động vật Hoang dã và Bảo tồn Khu vực Tự nhiên ở Myanmar. Loài này trước đây có nhiều ở Myanmar. Kể từ năm 2004, nhiều cuộc khảo sát về loài chim đã được thực hiện tại các khu đất ngập nước, và nhiều địa điểm không ghi nhận được loài này. 43 cá thể của loài này đã được ghi nhận dọc theo sông Chindwin giữa Monywar và Hkamti vào tháng 1 năm 2004 nhưng nó không được tìm thấy trong một cuộc khảo sát năm 2012 ở cùng khu vực. Nó chỉ được ghi nhận gần đây tại Khu bảo tồn Động vật Hoang dã Đất ngập nước Indawgyi vào năm 2013 và trên sông Irrawaddy ở đoạn Htigiant vào năm 2013 và 2015. Các cuộc khảo sát chỉ ra rằng sự định cư của con người và sự xáo trộn môi trường sống là những mối đe dọa đáng kể đối với loài này ở Myanmar. Việc chăn thả gia súc trong môi trường làm tổ ở bờ cát của chúng cũng là một mối đe dọa đối với loài này. Trong tương lai gần,
Hồng hoàng túi trơn Aceros subruficollis được liệt vào danh sách các loài Sẽ nguy cấp và gần đặc hữu của Myanmar. Loài này được bảo vệ hoàn toàn theo Luật Bảo vệ Động vật Hoang dã và Bảo tồn Khu vực Tự nhiên ở Myanmar. Loài này trước đây đã được tìm thấy ở vùng Bago, bang Mon, bang Kayin và vùng Taninthayi ở Myanmar. Từ tháng 2 năm 2014 đến tháng 7 năm 2015, WCS đã tiến hành các cuộc điều tra về chim trên khắp Vùng Taninthayi, nơi loài này được ghi nhận tại 5 địa điểm. Số lượng lớn các cá thể của loài này đã được ghi nhận, bao gồm 398 loài chim ở Rừng bảo tồn Nga Wun và 123 loài chim ở Vườn quốc gia biển Lampi. Chỉ có một số cuộc khảo sát về chim gần đây đã được mã hóa ở các khu vực rừng ở Bago, Mon và Kayin, nơi loài này vẫn có thể xuất hiện. Kết quả của các cuộc điều tra chỉ ra rằng mất môi trường sống là một mối đe dọa đáng kể đối với loài này ở Myanmar. WCS đang tiếp tục khảo sát để làm rõ sự phân bố và tình trạng của nó tại Tanintharyi. WCS cũng đang tìm kiếm cơ hội cho các cuộc điều tra về chim ở Bago, Mon và Kayin để lấp đầy khoảng trống thông tin về loài này.
Con chim Khướu Chrysomma altirostre của Jerdon nguy cấp được WCS phát hiện tại Trang trại Uto ở Vùng Yangon vào tháng 5 năm 2014. Lần cuối cùng ghi nhận nó ở Myanmar là vào tháng 7 năm 1941, ở Vùng Bago. Vào cuối thế kỷ 19, loài này xuất hiện ở các vùng Bago, Mandalay, Magwe và Bang Kachin. Kết quả của các cuộc điều tra chỉ ra rằng việc mất môi trường sống trên đồng cỏ là một mối đe dọa đáng kể đối với loài này ở Myanmar. Cần có thêm nhiều cuộc điều tra để làm rõ sự phân bố và tình trạng của loài này trên khắp các đồng cỏ ở Myanmar để bảo vệ loài này không bị biến mất một lần nữa.